Thuyết đính kèm là gì? Định nghĩa và các giai đoạn

Sự gắn bó mô tả mối quan hệ sâu sắc, lâu dài hình thành giữa hai người. John Bowlby khởi xướng lý thuyết về sự gắn bó để giải thích cách những mối liên kết này hình thành giữa trẻ sơ sinh và người chăm sóc, và Mary Ainsworth sau đó đã mở rộng ý tưởng của mình. Kể từ khi được giới thiệu lần đầu, thuyết gắn bó đã trở thành một trong những thuyết nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực tâm lý học.

Chìa khóa takeaways: Thuyết đính kèm

  • Sự gắn bó là một mối quan hệ sâu sắc, tình cảm hình thành giữa hai người.
  • Theo nhà tâm lý học John Bowlby, trong bối cảnh tiến hóa, các hành vi gắn bó của trẻ em đã phát triển để đảm bảo rằng chúng có thể tồn tại thành công dưới sự bảo vệ của những người chăm sóc chúng để tồn tại.
  • Bowlby đã chỉ định bốn giai đoạn phát triển sự gắn bó với người chăm sóc trẻ: 0-3 tháng, 3-6 tháng, 6 tháng đến 3 tuổi và 3 năm cho đến hết thời thơ ấu.
  • Mở rộng ý tưởng của Bowlby, Mary Ainsworth chỉ ra ba kiểu gắn bó: gắn bó an toàn, gắn bó né tránh và gắn bó kháng cự. Kiểu đính kèm thứ tư, kiểu đính kèm vô tổ chức, sau đó đã được thêm vào.

Khi làm việc với những đứa trẻ hư và phạm pháp vào những năm 1930, nhà tâm lý học John Bowlby nhận thấy rằng những đứa trẻ này gặp khó khăn trong việc hình thành mối quan hệ thân thiết với những người khác. Anh ấy xem xét lịch sử gia đình của những đứa trẻ và nhận thấy rằng nhiều đứa trẻ trong số chúng đã phải chịu đựng những đổ vỡ trong cuộc sống gia đình ngay từ khi còn nhỏ. Bowlby đã đi đến kết luận rằng mối quan hệ tình cảm ban đầu được thiết lập giữa cha mẹ và con cái của họ là chìa khóa cho sự phát triển lành mạnh. Do đó, những thách thức đối với mối ràng buộc đó có thể gây ra những hậu quả ảnh hưởng đến đứa trẻ trong suốt cuộc đời của chúng. Bowlby đào sâu vào một số quan điểm để phát triển ý tưởng của mình, bao gồm lý thuyết tâm động học, tâm lý học nhận thức và phát triển, và đạo đức học (khoa học về hành vi của con người và động vật trong bối cảnh tiến hóa). Kết quả công việc của ông là lý thuyết đính kèm.

Vào thời điểm đó, người ta tin rằng trẻ sơ sinh trở nên gắn bó với người chăm sóc vì họ cho trẻ ăn. Quan điểm của nhà hành vi học này coi sự gắn bó là một hành vi học được.

Bowlby đưa ra một quan điểm khác. Ông cho rằng sự phát triển của con người nên được hiểu trong bối cảnh tiến hóa. Trẻ sơ sinh sống sót trong suốt phần lớn lịch sử loài người bằng cách đảm bảo chúng ở gần những người lớn chăm sóc. Các hành vi gắn bó của trẻ em phát triển để đảm bảo đứa trẻ có thể duy trì thành công dưới sự bảo vệ của những người chăm sóc chúng. Do đó, các cử chỉ, âm thanh và các tín hiệu khác mà trẻ sơ sinh phát ra để thu hút sự chú ý và duy trì liên lạc với người lớn đều mang tính thích nghi.

Bowlby đã chỉ định bốn giai đoạn trong đó trẻ em phát triển sự gắn bó với người chăm sóc chúng.

Giai đoạn 1: Sơ sinh đến 3 tháng

Ngay từ khi mới sinh ra, trẻ sơ sinh đã thể hiện sở thích nhìn vào khuôn mặt người và lắng nghe giọng nói của con người. Trong hai đến ba tháng đầu đời, trẻ sơ sinh phản ứng với mọi người nhưng chúng không phân biệt giữa những người đó. Vào khoảng 6 tuần, việc nhìn thấy khuôn mặt của con người sẽ gợi ra những nụ cười xã giao, trong đó các em bé sẽ vui vẻ mỉm cười và giao tiếp bằng mắt. Mặc dù em bé sẽ mỉm cười với bất kỳ khuôn mặt nào xuất hiện trong tầm nhìn của chúng, nhưng Bowlby cho rằng nụ cười xã giao làm tăng khả năng người chăm sóc sẽ đáp lại bằng sự quan tâm yêu thương, thúc đẩy sự gắn bó. Em bé cũng khuyến khích sự gắn bó với người chăm sóc thông qua các hành vi như bập bẹ, khóc, nắm và mút. Mỗi hành vi giúp trẻ sơ sinh tiếp xúc gần gũi hơn với người chăm sóc và thúc đẩy hơn nữa sự gắn kết và đầu tư tình cảm.

Giai đoạn 2: Từ 3 đến 6 tháng

Khi trẻ sơ sinh được khoảng 3 tháng tuổi, chúng bắt đầu phân biệt giữa mọi người và chúng bắt đầu dành những hành vi gắn bó của mình cho những người mà chúng thích. Trong khi họ sẽ mỉm cười và bập bẹ với những người mà họ nhận ra, họ sẽ không làm gì khác hơn là nhìn chằm chằm vào một người lạ. Nếu họ khóc, những người thân yêu của họ có thể an ủi họ tốt hơn. Sở thích của trẻ sơ sinh chỉ giới hạn ở hai đến ba cá nhân và chúng thường đặc biệt thích một người. Bowlby và các nhà nghiên cứu về sự gắn bó khác thường cho rằng cá nhân này sẽ là mẹ của đứa trẻ sơ sinh, nhưng đó có thể là bất kỳ ai phản ứng thành công nhất và có tương tác tích cực nhất với đứa trẻ.

Giai đoạn 3: Từ 6 tháng đến 3 năm

Vào khoảng 6 tháng, sở thích của trẻ sơ sinh đối với một cá nhân cụ thể trở nên mãnh liệt hơn và khi cá nhân đó rời khỏi phòng, trẻ sơ sinh sẽ lo lắng về sự tách biệt. Khi trẻ biết bò, chúng cũng sẽ cố gắng chủ động đi theo người mà chúng yêu thích. Khi cá nhân này trở lại sau một thời gian vắng mặt, các em bé sẽ chào đón họ một cách nhiệt tình. Bắt đầu từ khoảng 7 hoặc 8 tháng tuổi, trẻ sơ sinh cũng sẽ bắt đầu sợ người lạ. Điều này có thể biểu hiện bằng bất cứ điều gì, từ một chút thận trọng hơn khi có mặt người lạ đến khóc khi nhìn thấy một người mới, đặc biệt là trong một tình huống không quen thuộc. Vào thời điểm trẻ được một tuổi, chúng đã phát triển một mô hình làm việc của cá nhân mà chúng yêu thích, bao gồm cả cách chúng phản ứng với đứa trẻ.

Giai đoạn 4: Từ 3 tuổi cho đến khi kết thúc thời thơ ấu

Bowlby không có nhiều điều để nói về giai đoạn thứ tư của sự gắn bó hay cách mà những sự gắn bó tiếp tục tác động đến con người sau thời thơ ấu. Tuy nhiên, ông đã quan sát thấy rằng vào khoảng 3 tuổi, trẻ em bắt đầu hiểu rằng những người chăm sóc chúng có những mục tiêu và kế hoạch của riêng chúng. Kết quả là đứa trẻ ít lo lắng hơn khi người chăm sóc rời đi trong một khoảng thời gian.

Sau khi chuyển đến Anh vào những năm 1950, Mary Ainsworth trở thành trợ lý nghiên cứu và cộng tác viên lâu dài của John Bowlby. Mặc dù Bowlby đã quan sát thấy rằng trẻ em thể hiện sự khác biệt cá nhân trong sự gắn bó, nhưng chính Ainsworth là người đã tiến hành nghiên cứu về sự xa cách giữa cha mẹ và trẻ sơ sinh đã giúp hiểu rõ hơn về những khác biệt cá nhân này. Phương pháp mà Ainsworth và các đồng nghiệp của cô đã phát triển để đánh giá những khác biệt này ở trẻ một tuổi được gọi là “Tình huống kỳ lạ”.

Tình huống kỳ lạ bao gồm hai tình huống ngắn trong phòng thí nghiệm, trong đó một người chăm sóc rời khỏi đứa trẻ sơ sinh. Trong kịch bản đầu tiên, đứa trẻ sơ sinh bị bỏ lại với một người lạ. Trong kịch bản thứ hai, đứa trẻ sơ sinh bị bỏ lại một mình trong thời gian ngắn và sau đó là người lạ tham gia cùng. Mỗi khoảng cách giữa người chăm sóc và đứa trẻ kéo dài khoảng ba phút.

Những quan sát của Ainsworth và các đồng nghiệp của cô về Tình huống kỳ lạ đã khiến họ xác định được ba kiểu gắn bó khác nhau. Kiểu đính kèm thứ tư sau đó đã được thêm vào dựa trên những phát hiện từ nghiên cứu sâu hơn.

Bốn kiểu đính kèm là:

  • Gắn bó an toàn: Trẻ sơ sinh được gắn bó an toàn sẽ sử dụng người chăm sóc như một cơ sở an toàn để khám phá thế giới. Chúng sẽ mạo hiểm khám phá khi không có người chăm sóc, nhưng nếu chúng sợ hãi hoặc cần được trấn an, chúng sẽ quay lại. Nếu người chăm sóc rời đi, chúng sẽ khó chịu giống như tất cả các em bé. Tuy nhiên, những đứa trẻ này tin chắc rằng người chăm sóc chúng sẽ trở lại. Khi điều đó xảy ra, họ sẽ vui mừng chào đón người chăm sóc.
  • Gắn bó tránh né: Những đứa trẻ có biểu hiện gắn bó tránh né sẽ cảm thấy không an toàn khi gắn bó với người chăm sóc. Những đứa trẻ gắn bó tránh né sẽ không trở nên quá đau khổ khi người chăm sóc rời đi, và khi họ trở về, đứa trẻ sẽ cố tình tránh mặt người chăm sóc.
  • Tệp đính kèm kháng cự: Tệp đính kèm kháng cự là một dạng tệp đính kèm không an toàn khác. Những đứa trẻ này trở nên vô cùng khó chịu khi cha mẹ rời đi. Tuy nhiên, khi người chăm sóc trở về, hành vi của họ sẽ không nhất quán. Ban đầu, chúng có vẻ vui khi thấy người chăm sóc chỉ trở nên phản kháng nếu người chăm sóc cố gắng bế chúng lên. Những đứa trẻ này thường phản ứng giận dữ với người chăm sóc; tuy nhiên, họ cũng thể hiện những khoảnh khắc tránh né.
  • Gắn bó vô tổ chức: Kiểu gắn bó cuối cùng thường xuất hiện nhiều nhất ở những đứa trẻ từng bị lạm dụng, bỏ bê hoặc các cách nuôi dạy con không nhất quán khác. Những đứa trẻ có kiểu gắn bó vô tổ chức dường như bị mất phương hướng hoặc bối rối khi có mặt người chăm sóc chúng. Họ dường như coi người chăm sóc là nguồn an ủi và sợ hãi, dẫn đến những hành vi vô tổ chức và mâu thuẫn.

Nghiên cứu đã chứng minh rằng các kiểu gắn bó sớm có những hậu quả ảnh hưởng đến phần còn lại của cuộc đời một cá nhân. Ví dụ, một người có kiểu gắn bó an toàn thời thơ ấu sẽ có lòng tự trọng tốt hơn khi họ lớn lên và sẽ có thể hình thành các mối quan hệ bền chặt, lành mạnh khi trưởng thành. Mặt khác, những người có kiểu gắn bó tránh né khi còn nhỏ có thể không thể đầu tư cảm xúc vào các mối quan hệ của họ và gặp khó khăn trong việc chia sẻ suy nghĩ và cảm xúc của họ với người khác. Tương tự như vậy, những người có phong cách gắn bó kháng cự khi mới một tuổi gặp khó khăn trong việc hình thành mối quan hệ với người khác khi trưởng thành và khi họ làm vậy, họ thường đặt câu hỏi liệu đối tác của họ có thực sự yêu họ hay không.

Sự cần thiết của việc hình thành sự gắn bó sớm trong đời có ý nghĩa nghiêm trọng đối với những đứa trẻ lớn lên trong các viện dưỡng lão hoặc bị tách khỏi cha mẹ khi chúng còn nhỏ. Bowlby quan sát thấy rằng những đứa trẻ lớn lên trong các viện thường không hình thành sự gắn bó với bất kỳ người lớn nào. Mặc dù nhu cầu thể chất của họ được đáp ứng, nhưng vì nhu cầu tình cảm của họ không được đáp ứng, họ không gắn bó với bất kỳ ai khi còn nhỏ và sau đó dường như không có khả năng hình thành các mối quan hệ yêu đương khi lớn lên. Một số nghiên cứu đã gợi ý rằng các biện pháp can thiệp trị liệu có thể giúp bù đắp cho những thiếu sót mà những đứa trẻ này đã trải qua. Tuy nhiên, các sự kiện khác đã chứng minh rằng những đứa trẻ không phát triển sự gắn bó khi còn nhỏ tiếp tục gặp phải các vấn đề về cảm xúc. Vẫn cần nghiên cứu thêm về chủ đề này, tuy nhiên, bằng cách này hay cách khác, có vẻ như rõ ràng là sự phát triển diễn ra tốt nhất nếu trẻ có thể gắn bó với người chăm sóc trong những năm đầu đời.

Tách khỏi những người gắn bó trong thời thơ ấu cũng có thể dẫn đến các vấn đề về cảm xúc. Vào những năm 1950, Bowlby và James Robertson phát hiện ra rằng khi trẻ em bị tách khỏi cha mẹ trong thời gian nằm viện kéo dài—một thực tế phổ biến vào thời điểm đó—điều đó dẫn đến rất nhiều đau khổ cho đứa trẻ. Nếu trẻ em bị tách khỏi cha mẹ quá lâu, chúng dường như không còn tin tưởng mọi người, và giống như những đứa trẻ bị đưa vào viện, không còn khả năng hình thành các mối quan hệ thân thiết. May mắn thay, công việc của Bowlby đã dẫn đến nhiều bệnh viện cho phép cha mẹ ở lại với con nhỏ của họ.

Nghiên cứu về sự gắn bó của Bowlby và Ainsworth gợi ý rằng cha mẹ nên xem con mình được trang bị đầy đủ để báo hiệu những gì chúng cần. Vì vậy, khi trẻ khóc, cười hoặc bi bô, cha mẹ nên làm theo bản năng của trẻ và phản ứng lại. Những đứa trẻ có cha mẹ nhanh chóng đáp ứng các tín hiệu của chúng một cách cẩn thận có xu hướng được gắn bó an toàn khi chúng được một tuổi. Điều này không có nghĩa là cha mẹ nên chủ động đến bên trẻ khi trẻ chưa ra hiệu. Bowlby cho biết nếu cha mẹ khăng khăng muốn quan tâm đến đứa trẻ cho dù đứa trẻ có đang báo hiệu mong muốn được chú ý hay không, Bowlby cho biết đứa trẻ có thể trở nên hư hỏng. Thay vào đó, Bowlby và Ainsworth cảm thấy rằng những người chăm sóc chỉ nên có mặt trong khi để con họ theo đuổi sở thích và khám phá độc lập của riêng chúng.

  • Anh đào, Kendra. “Bowlby & Ainsworth: Thuyết gắn bó là gì?” Verywell Mind , ngày 21 tháng 9 năm 2019. https://www.verywellmind.com/what-is-attachment-theory-2795337
  • Anh đào, Kendra. “Các kiểu gắn bó khác nhau” Verywell Mind , ngày 24 tháng 6 năm 2019. https://www.verywellmind.com/attachment-styles-2795344
  • Crain, William. Các lý thuyết về phát triển: Khái niệm và ứng dụng. Tái bản lần thứ 5, Pearson Prentice Hall. 2005.
  • Fraley, R. Chris và Phillip R. Shaver. “Lý thuyết đính kèm và vị trí của nó trong nghiên cứu và lý thuyết nhân cách đương đại.” Sổ tay Nhân cách: Lý thuyết và Nghiên cứu, xuất bản lần thứ 3, do Oliver P. John, Richard W. Robins, và Lawrence A. Pervin biên tập, The Guilford Press, 2008, trang 518-541.
  • McAdams, Dan. Con người: Giới thiệu về Khoa học Tâm lý Nhân cách . Tái bản lần thứ 5, Wiley, 2008.
  • McLeod, Saul. “Lý thuyết đính kèm.” Tâm lý học đơn giản , ngày 5 tháng 2 năm 2017. https://www.simplypsychology.org/attachment.html
Đọc Thêm:  Các lựa chọn kiểm tra tiếng Anh cho học sinh ESL

Viết một bình luận