Liệu pháp Hành vi Cảm xúc Hợp lý (REBT) là gì?

Liệu pháp Hành vi Cảm xúc Hợp lý (REBT) được phát triển bởi nhà tâm lý học Albert Ellis vào năm 1955. Nó đề xuất rằng các bệnh tâm lý phát sinh từ quan điểm của chúng ta về các sự kiện, chứ không phải bản thân các sự kiện. Mục tiêu của liệu pháp REBT là cải thiện sức khỏe tinh thần của chúng ta bằng cách thay thế quan điểm tự đánh bại bản thân bằng quan điểm lành mạnh hơn.

Chìa khóa rút ra: Liệu pháp REBT

  • Được phát triển vào năm 1955, Liệu pháp Hành vi Cảm xúc Hợp lý (REBT) là liệu pháp hành vi nhận thức đầu tiên.
  • REBT tuyên bố rằng rối loạn chức năng tâm lý là kết quả của niềm tin phi lý về các tình huống và sự kiện mà chúng ta trải qua. Mục tiêu của REBT là thay thế lối suy nghĩ phi lý bằng những niềm tin hợp lý, lành mạnh hơn.
  • Mô hình ABCDE là nền tảng của REBT. A là một sự kiện kích hoạt dẫn đến B, một niềm tin về sự kiện đó. Những niềm tin đó dẫn đến C, hậu quả về cảm xúc, hành vi và nhận thức của niềm tin của một người về sự kiện. REBT tìm đến D, tranh chấp niềm tin phi lý của một người để dẫn đến E, những tác động về cảm xúc, hành vi và nhận thức đi kèm với việc thay đổi niềm tin của một người để họ trở nên lành mạnh và lý trí hơn.

Albert Ellis là một nhà tâm lý học lâm sàng được đào tạo theo truyền thống phân tâm học, nhưng ông bắt đầu cảm thấy rằng các liệu pháp phân tâm học không giúp ích hiệu quả cho bệnh nhân của mình. Ông quan sát thấy rằng mặc dù phương pháp này làm sáng tỏ những vấn đề mà bệnh nhân của ông đang phải đối mặt, nhưng nó không giúp họ thực sự thay đổi phản ứng của mình đối với những vấn đề đó.

Điều này khiến Ellis bắt đầu phát triển hệ thống trị liệu của riêng mình vào những năm 1950. Có rất nhiều điều đã ảnh hưởng đến anh ấy trong quá trình này. Đầu tiên, mối quan tâm của Ellis đối với triết học là công cụ. Đặc biệt, Ellis được truyền cảm hứng từ tuyên bố của Epictetus, “Con người không bị quấy rầy bởi sự vật mà bởi cách nhìn của họ về sự vật.” Thứ hai, Ellis dựa trên ý tưởng của các nhà tâm lý học nổi tiếng, bao gồm khái niệm “sự chuyên chế của những điều nên làm” của Karen Horney và gợi ý của Alfred Adler rằng hành vi của một cá nhân là kết quả của quan điểm của họ. Cuối cùng, Ellis dựa trên công việc của các nhà ngữ nghĩa học nói chung, những người tin rằng việc sử dụng ngôn ngữ bất cẩn có thể ảnh hưởng đến cách chúng ta cảm nhận và hành xử.

Từ những ảnh hưởng khác nhau này, Ellis đã tạo ra liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý, cho rằng cách mọi người cảm nhận là kết quả của cách họ suy nghĩ. Mọi người thường giữ niềm tin phi lý về bản thân, người khác và thế giới có thể dẫn đến các vấn đề tâm lý. REBT giúp mọi người bằng cách thay đổi những niềm tin và quá trình suy nghĩ phi lý đó.

REBT là liệu pháp hành vi nhận thức đầu tiên. Ellis tiếp tục làm việc cho REBT cho đến khi ông qua đời vào năm 2007. Do ông liên tục điều chỉnh và cải tiến phương pháp trị liệu của mình nên nó đã trải qua một số lần thay đổi tên. Khi Ellis lần đầu tiên giới thiệu kỹ thuật của mình vào những năm 1950, ông gọi đó là liệu pháp hợp lý. Đến năm 1959, ông đổi tên thành liệu pháp cảm xúc hợp lý. Sau đó, vào năm 1992, ông đổi tên thành liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý.

REBT đặt nặng tính hợp lý và tính phi lý. Trong bối cảnh này, sự phi lý là bất cứ điều gì phi logic hoặc theo một cách nào đó cản trở một cá nhân đạt được các mục tiêu dài hạn của họ. Kết quả là, tính hợp lý không có định nghĩa cố định mà phụ thuộc vào mục tiêu của cá nhân và điều gì sẽ giúp họ đạt được những mục tiêu đó.

REBT cho rằng suy nghĩ phi lý là trung tâm của các vấn đề tâm lý. REBT chỉ ra một số niềm tin phi lý cụ thể mà mọi người thể hiện. Bao gồm các:

  • Đòi hỏi hoặc Bắt buộc – những niềm tin cứng nhắc khiến mọi người suy nghĩ theo những thuật ngữ tuyệt đối như “phải” và “nên”. Ví dụ: “Tôi phải vượt qua bài kiểm tra này” hoặc “Tôi phải luôn cảm thấy được người quan trọng của mình yêu thương”. Quan điểm được thể hiện bởi các loại tuyên bố này thường không thực tế. Lối suy nghĩ giáo điều như vậy có thể làm tê liệt cá nhân và khiến họ tự hủy hoại chính mình. Ví dụ, bạn mong muốn vượt qua bài kiểm tra nhưng điều đó có thể không xảy ra. Nếu cá nhân không chấp nhận khả năng họ có thể không vượt qua, điều đó có thể dẫn đến sự trì hoãn và không cố gắng vì họ lo lắng về những gì có thể xảy ra nếu họ không vượt qua.
  • Kinh khủng – một cá nhân nói rằng một trải nghiệm hoặc tình huống là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra. Những câu nói kinh khủng bao gồm những từ như “khủng khiếp”, “khủng khiếp” và “khủng khiếp”. Hiểu theo nghĩa đen, những loại tuyên bố này khiến một cá nhân không còn nơi nào để cải thiện tình hình và do đó không phải là cách suy nghĩ mang tính xây dựng.
  • Khả năng chịu đựng thất vọng thấp — niềm tin của một cá nhân rằng họ không thể chịu đựng được nếu điều gì đó mà họ khẳng định là “không được” xảy ra. Cá nhân có thể tin rằng một sự kiện như vậy sẽ khiến họ không thể trải nghiệm bất kỳ hạnh phúc nào. Những người có khả năng chịu đựng sự thất vọng thấp (LFT) thường sử dụng các cụm từ như “không thể chịu đựng được” hoặc “không thể chịu đựng được”.
  • Khấu hao hoặc Đánh giá Toàn cầu – đánh giá bản thân hoặc người khác là thiếu sót vì không tuân theo một tiêu chuẩn duy nhất. Nó đòi hỏi phải đánh giá toàn bộ con người của một cá nhân theo một tiêu chí và bỏ qua sự phức tạp của chúng.

Mặc dù REBT nhấn mạnh đến lối suy nghĩ phi lý, nhưng sự nhấn mạnh đó lại phục vụ cho việc xác định và điều chỉnh lối suy nghĩ đó. REBT lập luận rằng mọi người có thể nghĩ về suy nghĩ của họ và do đó có thể chủ động lựa chọn để thách thức những suy nghĩ phi lý của họ và hướng tới việc thay đổi chúng.

Nền tảng của REBT là mô hình ABCDE. Mô hình giúp khám phá những niềm tin phi lý của một người và cung cấp một quy trình để tranh luận về chúng và thiết lập những niềm tin hợp lý hơn. Các yếu tố của mô hình bao gồm:

  • A – Kích hoạt sự kiện. Một sự kiện bất lợi hoặc không mong muốn của một cá nhân.
  • B – Niềm tin. Niềm tin phi lý xuất hiện do sự kiện kích hoạt.
  • C – Hậu quả. Hệ quả cảm xúc, hành vi và nhận thức của niềm tin của một người về sự kiện kích hoạt. Niềm tin phi lý dẫn đến hậu quả rối loạn chức năng tâm lý.

Phần đầu tiên này của mô hình tập trung vào sự hình thành và kết quả của những niềm tin phi lý. REBT quan sát thấy rằng trong khi nhiều người sẽ đổ lỗi cho sự kiện kích hoạt (A) về hậu quả tiêu cực (C) mà họ gặp phải, thì thực ra chính niềm tin (B) mà họ hình thành về sự kiện kích hoạt (A) mới thực sự dẫn đến hậu quả (C) . Do đó, việc phát hiện ra những niềm tin đó là chìa khóa để thay đổi các hậu quả về cảm xúc, hành vi và nhận thức.

Ví dụ, có lẽ một cá nhân bị người yêu của mình từ chối. Đây là sự kiện kích hoạt (A), đó là một thực tế của cuộc sống và cá nhân có thể phản ứng với nó theo những cách khác nhau. Trong trường hợp này, cá nhân bị từ chối hình thành niềm tin (B) rằng vì anh ta bị từ chối nên anh ta không đáng yêu và sẽ không bao giờ có một mối quan hệ lãng mạn nào nữa. Hậu quả (C) của niềm tin này là người đàn ông không bao giờ hẹn hò, ở một mình và ngày càng trở nên chán nản và cô lập.

Đây là nơi phần còn lại của mô hình REBT có thể giúp ích.

  • D – Tranh chấp. Khách hàng trong REBT được đào tạo để tích cực tranh luận về những niềm tin phi lý của họ để họ có thể tái cấu trúc chúng thành những niềm tin lành mạnh hơn.
  • E – Hiệu ứng. Tác động của việc thay đổi niềm tin của một người về một tình huống để trở nên thích nghi và hợp lý hơn, từ đó cải thiện cảm xúc, hành vi và nhận thức của một người.

Sau khi niềm tin phi lý của một cá nhân được phát hiện, REBT sử dụng một kỹ thuật gọi là tranh chấp để thách thức và tái cấu trúc những niềm tin này. Ví dụ, nếu người đàn ông bị người yêu từ chối đến gặp một học viên REBT, học viên này sẽ bác bỏ ý kiến cho rằng anh ta không đáng yêu. Các học viên REBT làm việc với khách hàng của họ để thử thách quá trình suy nghĩ có vấn đề của họ về các tình huống khác nhau cũng như các phản ứng hành vi và cảm xúc phi logic của họ. Các học viên khuyến khích khách hàng của họ áp dụng các quan điểm khác nhau, lành mạnh hơn. Để làm điều này, học viên sử dụng một số phương pháp bao gồm tưởng tượng có hướng dẫn, thiền định và viết nhật ký.

Mặc dù đôi khi mọi người đều vô lý, nhưng REBT gợi ý rằng mọi người có thể phát triển ba hiểu biết sâu sắc sẽ làm giảm xu hướng này.

  • Cái nhìn sâu sắc 1: Niềm tin cứng nhắc của chúng ta về các sự kiện tiêu cực chịu trách nhiệm chính cho những rối loạn tâm lý của chúng ta.
  • Cái nhìn sâu sắc 2: Chúng ta vẫn bị rối loạn tâm lý bởi vì chúng ta tiếp tục tuân theo những niềm tin cứng nhắc của mình thay vì nỗ lực để thay đổi chúng.
  • Cái nhìn sâu sắc 3: Sức khỏe tâm lý chỉ đến khi mọi người nỗ lực thay đổi những niềm tin phi lý của họ. Đó là một thực hành phải bắt đầu trong hiện tại và tiếp tục trong tương lai.

Chỉ bằng cách đạt được và làm theo cả ba hiểu biết sâu sắc, một cá nhân mới đi đến kết luận rằng họ phải nỗ lực để thách thức lối suy nghĩ phi lý của mình nhằm loại bỏ rối loạn chức năng tâm lý. Theo REBT, nếu cá nhân chỉ nhận ra suy nghĩ phi lý của họ nhưng không hành động để thay đổi nó, thì họ sẽ không nhận được bất kỳ lợi ích tích cực nào về cảm xúc, hành vi hoặc nhận thức.

Cuối cùng, một cá nhân khỏe mạnh về tâm lý học cách chấp nhận bản thân, người khác và thế giới. Họ cũng phát triển khả năng chịu đựng sự thất vọng cao. Một cá nhân có khả năng chịu đựng thất vọng cao thừa nhận rằng những sự kiện không mong muốn có thể và sẽ xảy ra nhưng tin rằng họ có thể chịu đựng những sự kiện như vậy bằng cách thay đổi hoặc chấp nhận chúng và theo đuổi các mục tiêu thay thế. Điều đó không có nghĩa là những người đã phát triển sự chấp nhận và khả năng chịu đựng thất vọng cao không trải qua những cảm xúc tiêu cực. Nó có nghĩa là những cảm xúc tiêu cực mà họ trải qua là lành mạnh vì chúng là kết quả của những niềm tin hợp lý. Ví dụ, những người khỏe mạnh về mặt tâm lý sẽ cảm thấy lo lắng nhưng không lo lắng và buồn bã nhưng không trầm cảm.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng REBT là một hình thức trị liệu hiệu quả cho các vấn đề như rối loạn ám ảnh cưỡng chế, trầm cảm và lo âu xã hội. Tuy nhiên, REBT đã không thoát khỏi mọi lời chỉ trích. Một số người không hài lòng với cách tiếp cận đối đầu do Ellis ủng hộ trong kỹ thuật tranh chấp của mình. Một số khách hàng của REBT đã bỏ trị liệu vì họ không muốn niềm tin của mình bị nghi ngờ. Tuy nhiên, mặc dù Ellis tỏ ra cứng rắn với khách hàng vì ông tin rằng cuộc sống rất khó khăn và khách hàng cần phải cứng rắn để đối phó, nhưng các học viên REBT khác thường áp dụng cách tiếp cận nhẹ nhàng hơn để hạn chế sự khó chịu của khách hàng.

Một lời chỉ trích khác về REBT là nó không phải lúc nào cũng hoạt động. Ellis gợi ý rằng đây là kết quả của việc mọi người không tuân thủ những niềm tin đã được sửa đổi mà họ đã đạt được khi trị liệu. Những cá nhân như vậy có thể nói về niềm tin mới của họ nhưng không hành động theo chúng, dẫn đến việc cá nhân đó quay trở lại niềm tin phi lý trước đây và những hậu quả về cảm xúc và hành vi của họ. Mặc dù REBT được coi là một hình thức trị liệu ngắn hạn, nhưng Ellis nói rằng một số người có thể cần phải điều trị lâu dài để đảm bảo họ duy trì niềm tin lành mạnh hơn cũng như những cải thiện về cảm xúc và hành vi do họ mang lại.

  • Anh đào, Kendra. “Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý hoạt động như thế nào.” Verywell Mind , ngày 20 tháng 6 năm 2019. https://www.verywellmind.com/rational-emotive-behavior-therapy-2796000
  • David, Daniel, Aurora Szentagotai, Kallay Eva và Bianca Macavei. “Bản tóm tắt về liệu pháp hành vi hợp lý-cảm xúc (REBT); Nghiên cứu cơ bản và ứng dụng.” Tạp chí Liệu pháp Nhận thức-Hành vi và Cảm xúc Hợp lý , tập. 23, không. 3, 2005, trang 175-221. https://doi.org/10.1007/s10942-005-0011-0
  • Dewey, Russell A. Tâm lý học: Giới thiệu , sách điện tử, Psych Web, 2017-2018. https://www.psywww.com/intropsych/index.html
  • Dryden, Windy, Daniel David và Albert Ellis. “Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý.” Cẩm nang trị liệu hành vi nhận thức . Tái bản lần thứ 3, do Keith S. Dobson biên tập. The Guilford Press, 2010, trang 226-276.
  • “Liệu pháp hành vi nhận thức và cảm xúc hợp lý.” Viện Albert Ellis. http://albertellis.org/rebt-cbt-therapy/
  • “Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý (REBT).” GoodTherapy, ngày 3 tháng 7 năm 2015. https://www.goodtherapy.org/learn-about-therapy/types/rational-emotive-behavioral-therapy
  • Raypole, pha lê. “Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý.” Healthline, ngày 13 tháng 9 năm 2018.
    https://www.healthline.com/health/rational-emotive-behavior-therapy#efficiency
Đọc Thêm:  Bạo lực cấu trúc là gì?

Viết một bình luận