Cua móng ngựa, một loài động vật chân đốt cổ đại đã cứu mạng sống

Cua móng ngựa thường được gọi là hóa thạch sống. Những động vật chân đốt nguyên thủy này đã sống trên trái đất được 360 triệu năm, phần lớn ở dạng giống như chúng xuất hiện ngày nay. Bất chấp lịch sử lâu đời của chúng, sự tồn tại của cua móng ngựa hiện đang bị đe dọa bởi các hoạt động của con người, bao gồm cả việc thu hoạch để nghiên cứu y học.

Bất cứ khi nào một vật lạ hoặc chất xâm nhập vào cơ thể con người, đều có nguy cơ gây nhiễm trùng. Nếu bạn đã tiêm vắc-xin, điều trị bằng đường tĩnh mạch, phẫu thuật dưới bất kỳ hình thức nào hoặc đã cấy ghép thiết bị y tế vào cơ thể, thì sự sống sót của bạn là nhờ cua móng ngựa.

Cua móng ngựa có máu giàu đồng và có màu xanh nổi bật. Protein trong tế bào máu của cua móng ngựa được giải phóng để đáp ứng với lượng nội độc tố vi khuẩn dù là nhỏ nhất, chẳng hạn như E. coli . Sự hiện diện của vi khuẩn khiến máu cua móng ngựa đông lại hoặc đông đặc, một phần của hệ thống phản ứng miễn dịch quá nhạy cảm của nó.

Vào những năm 1960, hai nhà nghiên cứu Frederick Bang và Jack Levin đã phát triển một phương pháp sử dụng các yếu tố đông máu này để kiểm tra sự nhiễm bẩn của các thiết bị y tế. Đến những năm 1970, xét nghiệm Limulus amebocyte lysate (LAL) của họ đã được sử dụng thương mại để đảm bảo mọi thứ từ dao mổ đến hông nhân tạo đều an toàn để đưa vào cơ thể người.

Mặc dù thử nghiệm như vậy là rất quan trọng đối với các phương pháp điều trị y tế an toàn, nhưng thực tế này lại gây thiệt hại cho quần thể cua móng ngựa. Máu cua móng ngựa đang có nhu cầu cao và ngành xét nghiệm y tế đánh bắt tới 500.000 con cua móng ngựa mỗi năm để lấy máu của chúng. Những con cua không bị giết hoàn toàn trong quá trình này; họ bị bắt, chảy máu và được thả ra. Nhưng các nhà sinh vật học nghi ngờ sự căng thẳng dẫn đến một tỷ lệ cua móng ngựa được thả ra sẽ chết khi trở lại nước. Liên minh Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên liệt kê cua móng ngựa Đại Tây Dương là loài dễ bị tổn thương, chỉ một loại dưới nguy cơ tuyệt chủng trong thang nguy cơ tuyệt chủng. May mắn thay, các biện pháp quản lý hiện đã được áp dụng để bảo vệ loài này.

Cua móng ngựa là động vật chân đốt sống ở biển, nhưng chúng không phải là động vật giáp xác. Chúng có họ hàng gần với nhện và bọ ve hơn là với cua thật. Cua móng ngựa thuộc bộ Chelicerata, cùng với loài nhện (nhện, bọ cạp và ve) và nhện biển. Tất cả các loài động vật chân đốt này đều sở hữu các phần phụ đặc biệt gần phần miệng của chúng được gọi là chelicerae . Cua móng ngựa dùng chelicerae để đưa thức ăn vào miệng.

Trong vương quốc động vật, cua móng ngựa được phân loại như sau:

  • Vương quốc – Animalia (động vật)
  • Ngành – Arthropoda (động vật chân đốt)
  • Subphylum – Chelicerata (chelicerates)
  • Lớp – Xiphosura
  • Bộ – Xiphosurida
  • Họ – Limulidae (cua móng ngựa)

Có bốn loài sống trong họ cua móng ngựa. Ba loài, Tachypleus tridentatus, Tachypleus gigas , và Carcinoscorpius rotundicauda , chỉ sống ở châu Á. Cua móng ngựa Đại Tây Dương ( Limulus polyphemus ) sống ở Vịnh Mexico và dọc theo bờ biển Đại Tây Dương của Bắc Mỹ.

Cua móng ngựa Đại Tây Dương được đặt tên theo lớp vỏ hình móng ngựa, giúp bảo vệ nó khỏi những kẻ săn mồi. Cua móng ngựa có màu nâu và dài tới 24 inch khi trưởng thành. Con cái lớn hơn đáng kể so với con đực. Giống như tất cả các loài động vật chân đốt, cua móng ngựa phát triển bằng cách lột xác bộ xương ngoài của chúng.

Mọi người thường tin rằng cái đuôi giống xương sống của cua móng ngựa là một cái vòi, nhưng thực tế không phải vậy. Đuôi có chức năng như một bánh lái, giúp cua móng ngựa di chuyển dưới đáy. Nếu một con sóng cuốn con sam lên bờ, nó sẽ dùng đuôi để tự đứng thẳng. Đừng bao giờ nhấc đuôi cua móng ngựa lên. Đuôi được gắn bằng một khớp hoạt động tương tự như khớp hông của con người. Khi bị treo lủng lẳng bằng đuôi, sức nặng của cơ thể cua móng ngựa có thể khiến đuôi bị trật khớp, khiến cua bất lực trong lần lật úp tiếp theo.

Ở mặt dưới của mai cua móng ngựa có một đôi chelicerae và năm đôi chân. Ở con đực, cặp chân đầu tiên được sửa đổi thành móc kẹp, để giữ con cái trong quá trình giao phối. Cua móng ngựa thở bằng mang sách.

Ngoài giá trị của chúng trong nghiên cứu y học, cua móng ngựa còn đóng vai trò sinh thái quan trọng. Lớp vỏ rộng, nhẵn của chúng cung cấp chất nền hoàn hảo cho nhiều sinh vật biển khác sinh sống. Khi di chuyển dọc theo đáy đại dương, cua móng ngựa có thể mang theo trai, hàu, giun ống, rau diếp biển, bọt biển và thậm chí cả hàu. Hàng nghìn con cua móng ngựa đẻ trứng dọc theo bờ biển đầy cát và nhiều loài chim di cư ven biển, bao gồm cả chim hải âu đỏ, dựa vào những quả trứng này làm nguồn nhiên liệu trong các chuyến bay dài của chúng.

Nguồn:

  • “Cua móng ngựa Đại Tây Dương (Limulus polyphemus),” Đại học Rhode Island, Trung tâm dữ liệu môi trường. Truy cập trực tuyến ngày 26 tháng 7 năm 2017.
  • “The Horseshoe Crab and Public Health,” Trang web The Horseshoe Crab, Nhóm Nghiên cứu & Phát triển Sinh thái (ERDG). Truy cập trực tuyến ngày 26 tháng 7 năm 2017.
  • Limulus polyphemus ,” Sách đỏ IUCN. Truy cập trực tuyến ngày 26 tháng 7 năm 2017.
  • “Dự án Limulus,” trang web của Đại học Sacred Heart. Truy cập trực tuyến ngày 26 tháng 7 năm 2017.
  • “The Blood of the Crab,” của Caren Chesler, Popular Mechanics, ngày 13 tháng 4 năm 2017. được đăng trực tuyến ngày 26 tháng 7 năm 2017.
Đọc Thêm:  Tại sao động vật biết áp dụng "chính sách nhượng bộ"?

Viết một bình luận