Giai điệu của quốc ca Đức bắt nguồn từ bài quốc ca cũ của đế quốc Áo “Gott erhalte Franz den Kaiser” (“God Save Franz the Emperor”) của Franz Joseph Haydn (1732-1809), được chơi lần đầu tiên vào ngày 12 tháng 2 năm 1797. Năm 1841, giai điệu của Haydn được August Heinrich Hoffmann von Fallersleben (1798-1874) kết hợp với lời bài hát để tạo ra “Das Lied der Deutschen” hay “Das Deutschlandlied”.
Từ thời Bismarck của Phổ (1871) cho đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất, bài quốc ca này đã được thay thế bằng một bài quốc ca khác. Năm 1922, tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Đức (“Cộng hòa Weimar”), Friedrich Ebert, chính thức giới thiệu “Das Lied der Deutschen” là quốc ca.
Trong 12 năm dưới thời Đức quốc xã, khổ thơ đầu tiên là bài quốc ca chính thức. Vào tháng 5 năm 1952, khổ thơ thứ ba được Tổng thống Theodor Heuss tuyên bố là quốc ca chính thức của Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức). (Đông Đức có bài quốc ca của riêng mình.) Câu thứ hai, mặc dù không bao giờ bị cấm (bị cấm), nhưng không phổ biến lắm vì liên quan đến “rượu, phụ nữ và bài hát”.
Câu thứ tư được viết bởi Albert Matthäi trong thời kỳ Pháp chiếm đóng vùng Ruhr vào năm 1923. Ngày nay nó không phải là một phần của bài quốc ca. Kể từ năm 1952, chỉ có câu thứ ba (“Einigkeit und Recht und Freiheit”) là bài quốc ca chính thức.
Das Lied der Deutschen | Bài hát của người Đức |
Lời bài hát tiếng Đức | Bản dịch tiếng Anh theo nghĩa đen |
Deutschland, Deutschland über alles, | Nước Đức, nước Đức trên hết, |
Über alles in der Welt, | Trên tất cả mọi thứ trên thế giới, |
Wenn es stets zu Schutz und Trutze | Khi luôn luôn, để bảo vệ, |
Brüderlich zusammenhält, | Chúng tôi sát cánh bên nhau như anh em. |
Von der Maas bis an die Memel, | Từ Maas đến Memel |
Von der Etsch bis an den Belt – | Từ Etsch đến Vành đai – |
Deutschland, Deutschland über alles, | Nước Đức, nước Đức trên hết |
Über alles in der Welt. | Hơn tất cả trên thế giới. |
Deutsche Frauen, deutsche Treue, | Phụ nữ Đức, lòng trung thành của người Đức, |
Deutscher Wein und deutscher Sang | Rượu Đức và bài hát Đức, |
Sollen in der Welt behalten | Sẽ giữ lại trên thế giới, |
Ihren alten schönen Klang, | Chiếc nhẫn đáng yêu cũ của họ |
Uns zu edler Tat begeistern | Truyền cảm hứng cho chúng ta đến những việc làm cao cả |
Unser ganzes Leben lang. | Toàn bộ cuộc sống của chúng tôi dài. |
Deutsche Frauen, deutsche Treue, | Phụ nữ Đức, lòng trung thành của người Đức, |
Deutscher Wein und deutscher Sang | Rượu Đức và bài hát Đức. |
Einigkeit und Recht und Freiheit | Thống nhất và pháp luật và tự do |
für das deutsche Vaterland! | Vì Tổ quốc Đức |
Danach cuối cùng uns alle streben | Tất cả chúng ta hãy cố gắng vì điều đó |
Brüderlich mit Herz und Hand! | Trong tình anh em với trái tim và bàn tay! |
Einigkeit und Recht und Freiheit | Thống nhất và pháp luật và tự do |
Sind des Glückes Unterpfand; | Là nền tảng cho hạnh phúc |
Blüh’ im Glanze diees Glückes, | Nở hoa trong ánh sáng của hạnh phúc |
Bluhe, Đức Vaterland. | Bloom, Tổ quốc Đức. |
Deutschland, Deutschland über alles,* | Nước Đức, nước Đức trên hết* |
Und im Unglück nun erst recht. | Và trong bất hạnh tất cả nhiều hơn nữa. |
Nur im Unglück kann die Liebe | Chỉ trong bất hạnh mới có thể yêu |
Zeigen, ob sie stark und echt. | Hiển thị nếu nó mạnh mẽ và đúng sự thật. |
Und soll es weiterklingen | Và vì vậy nó sẽ vang lên |
Von Geschlechte zu Geschlecht: | Từ thế hệ này sang thế hệ khác: |
Deutschland, Deutschland über alles, | Nước Đức, nước Đức trên hết, |
Und im Unglück nun erst recht. | Và trong bất hạnh tất cả nhiều hơn nữa. |
Nghe Giai điệu: Lied der Deutschen hoặc Deutschlandlied (phiên bản dàn nhạc.
Quốc ca (Bundeshymne) của Republik Österreich (Cộng hòa Áo) chính thức được thông qua vào ngày 25 tháng 2 năm 1947, sau một cuộc thi tìm người thay thế cho bài quốc ca cũ của Haydn đã bị Đức chiếm đoạt vào năm 1922 và hiện nay cũng đã có các hiệp hội Đức quốc xã. Tác giả của giai điệu không chắc chắn, nhưng nguồn gốc của nó có từ năm 1791, khi nó được tạo ra cho nhà nghỉ của hội Tam điểm mà cả Wolfgang Amadeus Mozart và Johann Holzer (1753-1818) đều thuộc về. Lý thuyết hiện tại nói rằng Mozart hoặc Holzer có thể đã sáng tác giai điệu.
Lời bài hát được viết bởi Paula von Preradovic (1887-1951), người chiến thắng trong cuộc thi năm 1947. Preradovic là mẹ của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Áo, Felix Hurdes, người đã khuyến khích bà (một nhà văn và nhà thơ nổi tiếng) tham gia cuộc thi.
Quốc ca Thụy Sĩ có một lịch sử độc đáo phản ánh bản chất của Thụy Sĩ. Thụy Sĩ ( die Schweiz ) có thể là một quốc gia lâu đời, nhưng quốc ca hiện tại của nó chỉ mới chính thức kể từ năm 1981. Mặc dù “Schweizer Landeshymne” hoặc “Landeshymne” đã được Nationalrat Thụy Sĩ tạm thời chấp thuận vào năm 1961 và được sử dụng phổ biến sau năm 1965, bài quốc ca đã không thực sự trở thành chính thức trong 20 năm nữa (ngày 1 tháng 4 năm 1981).
Bản thân bài quốc ca, ban đầu được gọi là “Schweizerpsalm”, đã cũ hơn nhiều. Năm 1841, linh mục và nhà soạn nhạc Alberik Zwyssig của Urn được yêu cầu sáng tác nhạc cho một bài thơ yêu nước do bạn ông, nhà xuất bản âm nhạc Zurich, Leonhard Widmer, viết. Anh ấy đã sử dụng một bài thánh ca mà anh ấy đã sáng tác và điều chỉnh nó cho phù hợp với lời của Widmer. Kết quả là “Schweizerpsalm”, nhanh chóng trở nên phổ biến ở các vùng của Thụy Sĩ. Nhưng một số bang của Thụy Sĩ, chẳng hạn như Neuchatel nói tiếng Pháp, có quốc ca riêng. Những nỗ lực để chọn một quốc ca chính thức của Thụy Sĩ (để thay thế một bài cũ sử dụng giai điệu “God Save the Queen/King”) của Anh đã vấp phải năm ngôn ngữ và bản sắc khu vực mạnh mẽ của đất nước cho đến năm 1981.